
Bệnh xuất huyết trên cá tra có thể bộc phát gây hao hụt rất cao khi cá bị stress do nhiệt độ cao hoặc/và tác động cơ học (do đánh bắt, vận chuyển,…), và thường nhiễm kép (multi-infection) với các tác nhân gây bệnh khác như: gan thận mủ, hội chứng vàng da,… Bệnh này thường xuất hiện nhiều lần trong suốt chu kỳ nuôi, gây ảnh hường lớn đến sự tăng trưởng của cá, kéo dài thời gian nuôi và chi phí điều trị.
Nguyên nhân
Tác nhân gây bệnh là nhóm vi khuẩn di động Aeromonas spp. bao gồm vi khuẩn Aeromonas hydrophila, A. sobria và A. caviae. Trong đó, vi khuẩn Aeromomas hydrophila được xem là loài gây bệnh cho cá nước ngọt quan trong nhất. Đây là các vi khuẩn Gram âm dạng hình que ngắn, hai đầu tròn, kích thước 0,5 x 1 – 1,5 µm, di động nhờ có 1 tiên mao.
Đặc điểm
Bệnh được ghi nhận lần đầu tiên tại Mỹ trên cá hồi (nước ngọt) vào năm 1979, sau đó bệnh xuất hiện tại một số nước châu Á. Tại Việt Nam, bệnh được ghi nhận trước năm 1993. Hiện nay, bệnh xuất hiện ở hầu khắp các vùng nuôi cá nước ngọt và gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người nuôi ở các tỉnh ĐBSCL.
Loài cảm nhiễm: Cá tra (P. hypophthalmus), cá basa (Pansianodon bocourti) và một số loài cá nước ngọt. Ở nước ta bệnh xuất hiện ở hầu hết các loài cá nuôi lồng, bè và ao hồ nước ngọt. Bệnh xảy ra trên cá ở tất cả các giai đoạn nuôi. Bệnh lây lan nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể đến 90%) trong trường hợp bệnh nặng.
Mùa vụ xuất hiện bệnh: Ở Việt Nam, bệnh xuất huyết do A. hydrophila xảy ra quanh năm, tập trung vào đầu mùa khô, đặc biệt là khi cá bị stress như sau khi trời mưa.
Phương thức truyền lây: Bệnh lây từ cá bệnh sang cá khỏe trong cùng một ao nuôi. Mầm bệnh tồn tại trong môi trường có thể gây bệnh trực tiếp cho cá khỏe qua dụng cụ chăm sóc nhiễm bệnh (thau, vợt, lưới,…). Mầm bệnh có thể tồn tại và sinh sản trong môi trường nước ao nuôi và lây từ ao này sang ao khác, từ vùng nuôi này sang vùng nuôi khác.
Triệu chứng
Giai đoạn đầu sau khi nhiễm bệnh cá kém ăn hoặc bỏ ăn, nổi lờ đờ trên tầng mặt. Da cá thường đổi màu tối không có ánh bạc, cá mất nhớt. Ở giai đoạn tiếp theo, xuất hiện các đốm xuất huyết trên thân, các gốc vây, quanh miệng, mắt và hậu môn.
Xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ. Trên vết loét thường có nấm và ký sinh trùng ký sinh. Mắt lồi đục, quanh hốc mắt bị sưng tấy, mất nhớt; hậu môn viêm xuất huyết; bụng trướng to, các vây xơ rách.
Bệnh tích
Ruột có thể chứa đầy hơi, gan thận thường bị hoại tử. Xoang bụng xuất huyết, gan tái nhợt, mật sưng to, thận sưng, xuất huyết.
Trường hợp cấp tính, khi mổ cá thấy nhiều dịch đỏ lẫn máu ở xoang bụng, xuất huyết nội tạng, cá chết nhiều trong thời gian ngắn.
Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các triệu chứng điển hình.
Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Lấy mẫu theo hướng dẫn. Gửi mẫu cá bệnh đến Phòng thử nghiệm được chỉ định.
Phòng bệnh
Ao được bao lưới xung quanh, bờ ao được kè chắc chắn, không rò rỉ; cải tạo ao và xử lý môi trường theo đúng quy trình kỹ thuật. Nước cấp vào ao nuôi phải được xử lý đảm bảo chất lượng, nước được lọc qua lưới lọc hai lớp, kích cỡ mắt lưới 40 µm.
Cá tra giống phải khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo an toàn dịch bệnh và đáp ứng các Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về giống thủy sản; Giống thủy sản từ cơ sở sản xuất ngoài tỉnh, nhập khẩu phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch; kiểm tra chất lượng theo quy định.
Lựa chọn cá tra giống phải khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng. Ảnh: LHV
Trước khi thả nuôi có thể tắm cá qua một số sản phẩm sát trùng để tiêu diệt mầm bệnh.
Tuân thủ mật độ thả nuôi theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản.
Sử dụng vaccine phòng bệnh theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành thú y thủy sản. Chỉ được sử dụng thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học trong Danh mục thuốc thú y dùng trong thú y thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam và theo hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành về thú y thủy sản; ngừng sử dụng trước khi thu hoạch theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Sử dụng thức ăn công nghiệp dạng bột, dạng mảnh hay dạng viên có kích thước phù hợp với cỡ miệng cá; hàm lượng đạm và thành phần cần thiết khác phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho từng giai đoạn phát triển của cá. Quản lý tốt lượng thức ăn cho cá, tránh lãng phí và gây ô nhiễm môi trường nước ao nuôi; Các loại thức ăn tổng hợp và tự chế biến cần bảo quản tốt, tránh bị nhiễm nấm mốc và nhiễm khuẩn; thức ăn tươi sống cần phải được xử lý đảm bảo không còn mầm bệnh trước khi cho ăn.
Bổ sung các loại vitamin, khoáng,… để tăng sức đề kháng cho cá trước và trong thời kỳ bệnh thường xảy ra.
Hằng ngày, theo dõi sức khỏe cá như: màu sắc, khả năng hoạt động, lượng thức ăn tiêu thụ. Kiểm tra các yếu tố môi trường ao nuôi: DO (hằng ngày); pH, độ kiềm (02 ngày/lần); H2S, NH3 (01 tuần/lần).
Không dùng chung dụng cụ giữa các ao, lồng, bể. Dụng cụ dùng trong quá trình sản xuất phải được vệ sinh, khử trùng trước và sau khi sử dụng.
Không để cho cá bị sốc do môi trường thay đổi xấu: nhiệt độ, hàm lượng ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước.
Đối với nuôi cá lồng bè, cần thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, còn lại một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước. Lượng vôi tính trung bình 2 kg vôi nung/10 m3. Lồng, bè lớn treo nhiều túi và lồng, bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy.
Người làm việc tại cơ sở nuôi phải thực hiện vệ sinh, khử trùng khi ra, vào cơ sở.
Lấy mẫu cá để xét nghiệm xác định mầm bệnh định kỳ ít nhất 01 lần/tháng/ao đối với cá nuôi thương phẩm; 02 lần/tháng/ao đối với cá ở giai đoạn ương giống.
Chủ cơ sở nuôi cần theo dõi nắm thông tin về tình hình dịch bệnh xảy ra trong khu vực/vùng, tình hình dự báo thời tiết và cảnh báo dịch bệnh của cơ quan chuyên môn để có biện pháp chủ động phòng tránh dịch bệnh. Khi cá có dấu hiệu bất thường, chủ cơ sở nuôi phải thông báo ngay cho cơ quan thú y để xác định kịp thời tác nhân gây bệnh.
Cá bệnh, cá chết và chất thải của ao bị bệnh phải được thu gom và xử lý kịp thời theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, cơ quan quản lý chuyên ngành thú y thủy sản.
Cơ sở nuôi cá tra phải có hệ thống sổ theo dõi sức khỏe cá, tình hình sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và sản phẩm xử lý cải tạo môi trường trong suốt quá trình sản xuất. Hồ sơ phải được lưu giữ đầy đủ để xuất trình khi có yêu cầu.
Sổ theo dõi ao nuôi phải có xác nhận của cơ quan chuyên ngành thú y thủy sản có thẩm quyền để phục vụ yêu cầu kiểm tra, truy xuất nguồn gốc khi nước nhập khẩu yêu cầu.
Điều trị bệnh
Để điều trị bệnh xuất huyết trên cá tra, cần xử lý môi trường nước bằng thuốc sát trùng, bổ sung kháng sinh trộn vào thức ăn (như florfenicol, doxycycline), trong 5 – 7 ngày, liều lượng và sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Trong trường hợp cá giống hoặc mật độ cao, có thể sử dụng các sản phẩm diệt khuẩn dạng tắm cho cá với liều lượng và thời gian phù hợp.
Cùng với đó, bổ sung men vi sinh cùng các Vitamin C, E để cá hồi phục nhanh hơn. Đồng thời, cần kiểm soát chất lượng nước, sử dụng thức ăn chất lượng tốt, và bổ sung khoáng chất để tăng cường sức đề kháng cho cá.
Lê Loan
Nguồn: Theo Tạp Chí Thủy Sản Kính thưa quý độc giả, Thủy Sản 247 hiện đang là đối tác truyền thông uy tín của nhiều đơn vị báo chí, truyền thông, triển lãm, hội chợ chuyên ngành thủy sản trên toàn cầu. Với sứ mệnh kết nối truyền thông thủy sản, chúng tôi sẽ nỗ lực mang đến quý độc giả những thông tin hữu ích, kịp thời và uy tín. Để người nuôi tôm, cá và doanh nghiệp thuận tiện cho việc phát triển nuôi trồng và kinh doanh. Quý bạn đọc có thể tham khảo hệ sinh thái Thủy Sản 247 bằng cách bấm vào đây để biết thêm chi tiết. BQT Thủy Sản 247 Group. Vui lòng ghi rõ nguồn thuysan247.com khi sao chép bài viết này. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác về email [email protected]. Nhấn nút "quan tâm" nếu bạn muốn nhận thông tin cập nhật từ chúng tôi trên Zalo. |
Bình luận bài viết