Pepsin là một trong những enzyme không thể thiếu trong khẩu phần ăn của cá da trơn nói chung và cá tra nói riêng vì chúng góp phần tăng sản lượng vụ nuôi.
Pepsin là một loại enzym phân giải protein khi tiếp xúc với HCl trong dạ dày. Việc không có hoạt động của enzym giống pepsin là một trong những hạn chế lớn trong việc hấp thụ dinh dưỡng, giảm thiểu tăng trưởng và đặc biệt sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ nở của ấu trùng. Mục đích quan trọng của việc bổ sung enzyme là cải thiện lợi nhuận và hiệu suất của vật nuôi thông qua tăng cường tiêu hóa và giảm ảnh hưởng đến môi trường.
Các enzym tiêu hóa là cơ quan điều hòa chủ yếu trong quá trình đồng hóa và chuyển hóa thức ăn. Nhiều loại enzym, axit amin và chế phẩm sinh học đã được thành lập trong quá trình sử dụng thức ăn và sinh lý ở nhiều nhóm động vật, trong khi dữ liệu sinh lý về pepsin, một loại enzym phân giải protein, vẫn còn thiếu.
Do đó, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá việc bổ sung pepsin trong chế độ ăn cho cá tra (Pangasianodon Hypophthalmus ). Bốn chế độ ăn bổ sung pepsin đã được thử nghiệm với các nồng độ (0 - 0,25 - 0,50 - 1,00 g/kg) trong thời gian 90 ngày. Các thí nghiệm được sục khí liên tục để duy trì oxy hòa tan.
Việc bổ sung pepsin trong chế độ ăn uống với các liều lượng khác nhau đã làm tăng hiệu suất sinh trưởng của cá tra trong điều kiện bể nuôi thông qua các thông số tăng trọng như tốc độ tăng trưởng đặc trưng SGR, hệ số chuyển đổi thức ăn FCR và hiệu quả sử dụng protein PER và đạt giá trị cao nhất ở nghiệm thức bổ sung 0,5 g/kg thức ăn và thấp nhất là nghiệm thức đối chứng. FCR đạt giá trị thấp nhất ở nghiệm thức 0,5 g/kg với giá trị là 2,03 ± 0,04, cao nhất là nghiệm thức đối chứng với giá trị FCR là 2,84 ± 0,05. Tỷ lệ sống sót của tất cả các điều trị là 95%.
Các nghiệm thức bổ sung pepsin đều cho thấy sự thay đổi trong các thông số huyết học như bạch cầu đơn nhân, hồng cầu, tiểu cầu. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào về mức đường huyết. Các nghiệm thức bổ sung pepsin đều cho thấy sự gia tăng hồng cầu, bạch cầu trong tất cả các nghiệm thức, hemoglobin và hematocrit đạt giá trị cao ở nghiệm thức 0,50 g/kg so với đối chứng.
Việc bổ sung pepsin làm giảm đáng kể hàm lượng amoniac, nitrat, nitrit và photphat trong nước. Nhiệt độ nước, pH và nồng độ oxy hòa tan không thay đổi đáng kể trong quá trình thí nghiệm. Mức amoniac, nitrat, nitrit và photphat thấp hơn đáng kể ở nghiệm thức bổ sung pepsin 0,5 g/kg.
Trong nghiên cứu này, việc bổ sung pepsin trong chế độ ăn giúp cải thiện sự tăng trưởng, sinh lý máu và chất lượng nước nuôi cá tra P. Hypophthalmus. Kết quả cho thấy kích thích tăng trưởng, giảm giá trị FCR, tăng số lượng hồng cầu, bạch cầu và giảm hàm lượng amoniac, nitrat và nitrit trong bể nuôi với chế độ ăn có bổ sung pepsin 0,5 g/kg, cho thấy khả năng tham gia của pepsin như một phụ gia thức ăn trong thương mại nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, phân tích hồi quy đa thức bậc hai cho thấy hiệu suất tăng trưởng cao nhất, cải thiện sinh lý máu và chất lượng nước ở liều 0,47–0,75 g/kg với đỉnh ở chế độ ăn 0,60 g/kg.
Trong nghiên cứu này, việc bổ sung pepsin 0,5 g/kg cho thấy có thể hấp thu tối đa protein, giảm mức độ thải nitơ tự do trong nước và giảm ô nhiễm nước. Từ đó, giảm đáng kể lượng amoniac, nitrat và nitrit trong ao nuôi.
Chất lượng nước đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát triển, tỷ lệ sống, sinh lý và sinh sản của cá. Suy giảm các thông số chất lượng nước và ô nhiễm gia tăng đặt ra những rào cản đáng kể đối với hệ thống nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là các ao nuôi cá tra. Abedin và cộng sự. (2017) báo cáo sản lượng amoniac tăng lên trong các ao nuôi cá tra với sự gia tăng thời gian nuôi. Do đó, các kỹ thuật thích nghi thích hợp là cần thiết để cải thiện và duy trì sức khỏe lâu dài của cá.
Nguồn: Theo sciencedirect.com Vui lòng ghi rõ nguồn thuysan247.com khi sao chép bài viết này. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác về email [email protected]. Nhấn nút "quan tâm" nếu bạn muốn nhận thông tin cập nhật từ chúng tôi trên Zalo. |
Bình luận bài viết