
Copefloc là công nghệ nuôi tôm sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên, kết hợp giữa các nguồn thức ăn tự nhiên trong ao như giun nhiều tơ, giáp xác chân chèo copepods và các hạt biofloc vi khuẩn (copefloc = copepod + biofloc). Công nghệ copefloc hoàn toàn không sử dụng thức ăn chế biến.
Biofloc là một phức hợp của tảo, vi khuẩn, nguyên sinh động vật và các hạt vật chất hữu cơ. Mỗi hạt biofloc có kết cấu lỏng lẻo, được gắn kết lại với nhau bởi các chất nhờn được tiết ra từ vi khuẩn, bởi các vi sinh vật dạng sợi hoặc do lực hút tĩnh điện.
Công nghệ copefloc được phát triển đầu tiên tại Thái Lan. Đặc điểm của mô hình này là:
- Ao nuôi không cần lót bạt;
- Ao không có hố siphong;
- Nuôi tôm không thay nước, tuần hoàn nước khép kín;
- Không sử dụng khoáng chất, hóa chất kháng sinh;
- Không ương tôm trước khi thả.
Có thể nói copefloc là mô hình công nghệ quay về tự nhiên.
Tôm nuôi trong hệ thống copefloc
1. Sinh thái trong ao nuôi theo mô hình copefloc
Động thái sinh học khác nhau của hai hệ thống nuôi tôm sử dụng thức ăn tự nhiên (copefloc, nửa phía trên) và sử dụng thức ăn công nghiệp (nửa bên dưới).
Sơ đồ chuỗi thức ăn trong qui trình nuôi tôm theo copefloc. (1) Phân thải ra của tôm cá nuôi lại cung cấp nguồn dinh dưỡng cơ bản cho vi khuẩn và vi tảo; (2) Vi khuẩn và vi tảo trở thành thức ăn cho phiêu sinh động vật hoặc động vật thân mềm sống đáy (như giun nhiều tơ); (3) Phiêu sinh động vật và động vật thân mềm trở thành thức ăn tự nhiên tươi sống cho động vật phù du khác và giáp xác nhỏ; (4) Phiêu sinh động vật, động vật thân mềm và giáp xác nhỏ trở thành thức ăn cho tôm cá nuôi.
2. Một số đặc điểm kỹ thuật cơ bản của qui trình nuôi copefloc
Chuẩn bị ao nuôi:
Thực hiện các bước cải tạo ao nuôi giống như các mô hình nuôi tôm khác (gia cố bờ ao, sên vét bùn đáy ao, bón vôi,…). Tuy nhiên, ao nuôi theo copefloc không cần lót bạt đáy ao, vì đáy ao là nơi sinh sống của các loài động vật thân mềm (như giun nhiều tơ,…) làm thức ăn tự nhiên cho tôm. Có thể lót bạt quanh bờ ao để tránh sạt lở, hạn chế nước đục trong mùa mưa. Nên có lưới rào xung quanh ao để hạn chế các sinh vật mang mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi (cua, ba khía,…).
Tùy theo điều kiện sẵn có, tuy nhiên, khuyến cáo diện tích ao nuôi nên từ 3.000 - 6.000 m2 để dễ chăm sóc và quản lý.
Hệ thống sục khí:
Vì ao nuôi không lót bạt nên không bố trí (hoặc bố trí rất ít) hệ thống quạt nước. Ao nuôi có diện tích khoảng 5.000 - 6.000 m2 có thể lắp 4 dàn quạt theo sơ đồ bên dưới. Ao có diện tích nhỏ hơn, có thể lắp 2 dàn quạt hoặc nhiều hơn.
Ngoài ra, ao nuôi tôm theo công nghệ copefloc thường sử dụng hệ thống sụt khí đáy làm bằng ống nhựa PVC có khoan các lỗ nhỏ (khoảng 1 mm), các ống đặt cách nhau 25 – 30 cm tạo thành mạng lưới ở giữa ao, bao phủ khoảng 40% tổng diện tích ao nuôi.
Mô hình nuôi copefloc không sản xuất chất thải, không cần siphong nên chúng ta không cần hệ thống sụt khí tạo dòng chảy để gom chất thải. Thay vào đó, chỉ cần cung cấp đầy đủ oxy cho tôm nuôi và các sinh vật là thức ăn tự nhiên có trong ao nuôi.
Hệ thống sục khí đáy sử dụng các ống PVC kết nối thành dạng mạng lưới. Ảnh trên là ao đang lấy nước chuẩn bị thả nuôi, ảnh dưới là sau khi thu hoạch tôm cho thấy đáy ao sau khi nuôi rất sạch
Gây nuôi thức ăn tự nhiên bằng cám gạo lên men:
Sau khi lấy nước vào ao nuôi từ ao lắng (nước được xử lý, lắng lọc ở ao lắng trong một thời gian dài) đến khi đạt độ sâu từ 1,2 – 1,5 m thì tiến hành gây nuôi copepod, giáp xác nhỏ khác (tép riu) và động vật thân mềm sống đáy (hà, giun, hến,…) bằng cách dùng cám gạo lên men với chế phẩm sinh học. Tuyệt đối không sử dụng nguồn copepod hay các sinh vật khác từ bên ngoài để tránh lây lan mầm bệnh vào ao.
Cám gạo được cho vào trong thùng lớn, cho nước ao nuôi và chế phẩm sinh học vào và sụt khí mạnh trong 24 - 48 giờ. Sau đó cho hỗn hợp cám gạo lên men vào trong túi vải dài, chuyển xuống ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men tỏa khắp ao nuôi. Lên tục sục khí và quạt nước 7 – 10 ngày hỗ trợ gây nuôi thức ăn tự nhiên.
Sàng mịn cám gạo trước khi lên men và lên men với vi sinh trong các thùng lớn, sau đó bón xuống ao để gây nuôi thức ăn tự nhiên
Lưu ý khi sử dụng cám gạo gây nuôi thức ăn tự nhiên:
- Không sử dụng trực tiếp cám gạo chưa qua quá trình lên men.
- pH của hỗn hợp cám gạo ủ phải lớn hơn 6,5 trước khi bón vào ao nuôi. Nếu pH dưới 6,5 nên thêm nước vôi để nâng cao pH (tốt nhất là pH khoảng 6,5 – 7,0).
- Hỗn hợp cám gạo lên men phải được lọc bằng túi vải (khoảng 50 micron) để loại bỏ các hạt gạo hay trấu khi đưa vào ao nuôi và thường xuyên đảo túi vải để dịch cám gạo lên men tỏa khắp ao nuôi.
- Nên treo túi vải gần hệ thống sục khí để dịch lên men tỏa đều khắp ao nuôi.
- Không nên sử dụng dịch cám gạo lên men quá 100 kg/ha mỗi ngày đối với ao nuôi thả tôm với mật độ tối đa 100 con/m2.
- Đối với cám gạo có chứa nhiều hạt gạo, trấu,…to cần phải được sàng qua lưới trước khi tiến hành lên men.
Đảo túi vải chứa cám gạo lên men để dịch lên men tỏa khắp ao nuôi
Tạo hạt biofloc:
Cần phải cung cấp thêm nguồn carbon cho hệ thống để tạo biofloc. Carbonhydrate là nguồn cung cấp carbon nhanh, rẻ và để sử dụng nhất là đường hoặc tinh bột. Đường sucrose có hàm lượng carbon từ 50 - 60% và rỉ đường (có hàm lượng carbon khoảng 40 - 50%.
Để tính số lượng carbon cần thiết thêm vào ao nuôi nhằm cân bằng hoặc giảm hàm lượng nitơ trong ao nuôi, chúng ta cần tính toán tổng hàm lượng nitơ trong ao nuôi bằng cách nhân giá trị NH4+/NH3 tổng số (TAN) với tổng thể tích nước ao nuôi.
Trong mô hình nuôi copefloc, nguồn nitơ trong ao chủ yếu là từ chất thải của tôm và sự phân hủy vật chất hữu cơ nên hàm lượng không lớn lắm, do đó, cần tránh việc bổ sung quá nhiều carbonhydrate vào ao nuôi.
Hạt biofloc cấu thành từ vi khuẩn, chất hữu cơ, nguyên sinh động vật, sợi khuẩn trở thành nguồn thức ăn cho tôm nuôi
Mật độ thả nuôi:
Khuyến cáo mật độ tôm nuôi trong mô hình này là dưới 50 con/m2. Ở mật độ nuôi này, tôm có thể phát triển tốt, hạn chế cạnh tranh về thức ăn tự nhiên.
Nguồn tôm giống thả nuôi trong qui trình này tại Thái Lan cũng được sản xuất theo qui trình biofloc.
3. Vận hành ao nuôi:
Đây là công nghệ nuôi sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên nên không cần cho tôm ăn. Người nuôi chỉ chú trọng đến việc quản lý quần thể thức ăn tự nhiên trong ao nuôi.
Các thông số cần kiểm tra hàng ngày như:
- Mật độ copepod trong ao nuôi/ Thu mẫu và tính toán mật độ copepod hằng ngày theo các bước sau:
(i) Copepod được thu bằng cách dùng xô lấy 50 - 100 lít nước ở các vị trí khác nhau trong ao nuôi;
(ii) Lọc mẫu nước vừa thu qua lưới phiêu sinh có kích thước 50 – 70 μm;
(iii) Phần mẫu thu được cho vào lọ 60 ml rồi dùng formol 2 - 4% cố định mẫu;
(iv) Dùng pipet lấy 1 ml mẫu trong lọ 60 ml cho vào buồng đếm Sedgewich và đếm số cá thể copepod bằng kính X10 hoặc X40;
(v) Công thức tính: X (sốcá thể/m3) = (T x Vcđ x 1000)/Vmt.
Trong đó:
- X: số lượng copepod (và cả nhóm khác);
- T: Số cá thể đếm được trên buồng đếm,
- Vcđ: thể tích mẫu cô đặc (ml, 60 mL),
- Vmt: thể tích mẫu nước thu qua lưới lọc ban đầu (50 - 100 lít, tùy theo thể tích nước đã thu).
Giun nhiều tơ và các loài động vật thân mềm sống đáy trong ao nuôi theo mô hình copefloc
Tép riu ăn copepod và cũng trở thành nguồn thức ăn cho tôm nuôi
Copepod là nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm nuôi trong hệ thống copefloc
- Duy trì thể tích biofloc trong ao nuôi (luôn luôn duy trì hàm lượng biofloc < 1 mL/L trong suốt chu kỳ nuôi). Cách đo hàm lượng biofloc: Bình nón Imhoff được dùng để kiểm tra hàm lượng biofloc bằng cách cho lắng 1 lít nước ao nuôi. Nước sau khi cho vào bình được để lắng trong 20 - 30 phút, sau đó ghi nhận thể tích chất rắn lắng xuống đáy bình. Trong mô hình nuôi theo công nghệ copefloc, hàm lượng biofloc tối ưu phải được duy trì ở mức < 1 mL/L khi đo bằng bình hình nón Imhoff để tránh tích tụ chất thải dưới đáy ao nuôi.
- Kiểm tra sức khỏe tôm nuôi. Đặc biệt không được sử dụng các loại hóa chất diệt khuẩn, xử lý nước và kháng sinh vì nó sẽ ảnh hưởng đến các sinh vật là nguồn thức ăn tự nhiên trong hệ thống nuôi.
- Trong quá trình nuôi, phải kiểm soát các chỉ tiêu môi trường ao nuôi như pH, oxy hòa tan và độ đục. Nếu như pH và oxy hòa tan giảm thấp, cần phải tạm ngưng sử dụng cám gạo lên men và kiểm tra nền đáy ao nuôi.
Tôm nuôi bằng công nghệ copefloc được kiểm tra bằng cách sốc độ mặn, tôm chuyển hoàn toàn sang nước ngọt trong 10 phút (hình bên dưới). Kết quả cho thấy, tôm rất khỏe mạnh, hoạt động mạnh, không có dấu hiệu yếu đi hoặc chết khi sốc, ruột đầy thức ăn, tôm không bị đục cơ, không gãy râu,…tôm không có dấu hiệu bị ảnh hưởng bởi sốc độ mặn
Nguồn: Theo Tổng hợp Vui lòng ghi rõ nguồn thuysan247.com khi sao chép bài viết này. Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác về email [email protected]. Nhấn nút "quan tâm" nếu bạn muốn nhận thông tin cập nhật từ chúng tôi trên Zalo. |
Bình luận bài viết