Ảnh hưởng của nước phèn, độ mặn lên tăng trưởng và enzyme tiêu hóa của cá tra giống

Đối tác truyền thông thủy sản 247
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thanh Hương và cộng sự giúp đánh giá ảnh hưởng kết hợp của pH thấp do nước phèn gây ra cùng với độ mặn lên tăng trưởng và hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá tra nước ngọt, từ đó có thể mở rộng vùng ương nuôi cá tra tới các khu vực nhiễm phèn, nhiễm mặn và thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu của Đỗ Thị Thanh Hương và cộng sự giúp đánh giá ảnh hưởng kết hợp của pH thấp do nước phèn gây ra cùng với độ mặn lên tăng trưởng và hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá tra nước ngọt, từ đó có thể mở rộng vùng ương nuôi cá tra tới các khu vực nhiễm phèn, nhiễm mặn và thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu.

thuysan247.com

Tính cấp thiết

Theo Đỗ Thị Thanh Hương và cộng sự, cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là loài cá da trơn nước ngọt có giá trị kinh tế cao và là một trong những đối tượng nuôi thế mạnh ở các tỉnh vùng ĐBSCL như: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang.

Tuy nhiên, hiện nay tình hình biến đổi khí hậu đã và đang trở thành vấn đề đáng quan tâm nhất ở vùng ĐBSCL với hiện tượng nước biển dâng cao và nước mặn xâm nhập vào nội đồng. Do đó, các vùng nuôi cá nước ngọt nói chung và cá tra nói riêng có khả năng bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập mặn.

Theo Bôi và cộng sự (2020), vấn đề xâm nhập mặn là đáng lo ngại nhất đối với hoạt động ương nuôi cá tra, đặc biệt ở khu vực vùng ven biển. Ngoài ra, ĐBSCL có diện tích đất nhiễm phèn rất lớn, hơn 1,6 triệu ha chiếm 41% diện tích vùng với mức pH thấp đến 3,5 (Khang và ctv.,1998; Cục trồng trọt, 2017). Do diện tích đất phèn lớn như vậy nên việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, đất phèn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường nước như pH thấp và do đó cản trở việc nuôi trồng thủy sản. Đất phèn chứa một lượng lớn axit sulfuric, tạo ra môi trường axit với độ pH rất thấp và dần đi vào môi trường ao hồ, kênh rạch làm cho động vật thủy sản còi cọc, ốm yếu hoặc chết (Dent & Pons, 1995).

Ngoài yếu tố pH, độ mặn cũng là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của động vật thủy sản. Nghiên cứu của Ha et al., (2021) cho thấy tốc độ tăng trưởng của cá tra bột khi ương ở độ mặn từ 0 đến 9‰ sau 2 tháng nuôi không có sự khác biệt giữa các mức độ mặn, tuy nhiên khi độ mặn tăng cao hơn 9‰ thì tăng trưởng của cá giảm và tỷ lệ sống cao nhất ở 6‰. Phuc (2015) nghiên cứu trên cá tra giai đoạn giống cho thấy cá sống tốt trong điều kiện độ mặn từ 2‰ đến 10‰, độ mặn từ 14‰ đến 18‰ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá giảm thấp.

Các nghiên cứu trên chỉ đánh giá tác động riêng lẻ của pH hoặc độ mặn lên động vật thủy sản. Nhưng với tình trạng biến đổi khí hậu như hiện nay cộng với ý thức sử dụng và cải tạo đất phèn, mặn của người dân chưa cao đã và đang làm gia tăng diện tích đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn ở ĐBSCL (Minh &Vũ, 2015). Do đó, sự giảm pH do phèn gây ra trong tự nhiên hoàn toàn có thể xảy ra đồng thời với sự xâm nhập mặn. Vấn đề đặt ra là tác động kết hợp của hai yếu tố nước phèn có pH thấp và độ mặn đến đời sống cá nước ngọt nói chung và cá tra nói riêng vẫn chưa có nhiều thông tin.

Nghiên cứu dưới đây của Đỗ Thị Thanh Hương và cộng sự giúp đánh giá ảnh hưởng kết hợp của pH thấp do nước phèn gây ra cùng với độ mặn lên tăng trưởng và hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá tra nước ngọt, từ đó có thể mở rộng vùng ương nuôi cá tra tới các khu vực nhiễm phèn, nhiễm mặn và thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu.

Phương pháp thực hiện

Để thực hiện nghiên cứu này, nhóm tác giả đã lựa chọn cá tra giống có kích cỡ 15 – 20 g/con, hoạt động khỏe mạnh, sạch bệnh, không bị dị hình dị tật, bơi theo đàn và không có dấu hiệu bệnh. Cá được đem về thuần dưỡng trong bể 2 m2 trong thời gian 2 tuần để ổn định và làm quen với môi trường mới. Nước ót (80 – 90‰), sau khi vận chuyển về trại thí nghiệm, nước được xử lý bằng Chlorine với nồng độ 30 ppm, sục khí mạnh và liên tục ít nhất 2 đến 3 ngày trước khi sử dụng.

Đất phèn được nhóm tác giả mua về sau đó cho đất vào nước máy theo tỷ lệ thể tích 50% đất: 50% nước, cho đất từ từ rã trong nước, khuấy đất lên và để lắng khoảng 3 ngày để thu được mẫu nước phèn có pH thấp (khoảng 2 – 3) sử dụng trong thí nghiệm. Thức ăn dùng trong thí nghiệm là thức ăn hỗn hợp viên nổi cho cá giống giai đoạn từ 10 g đến 100 g có hàm lượng đạm là 30%.

Cá tra giống có kích cỡ trung bình 15,22 ± 0,93 g/con được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 9 nghiệm thức với 3 mức pH là 5,5, 6,5 và 7,5 kết hợp cùng 3 mức độ mặn 3‰, 6‰ và 9‰. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, mật độ bố trí là 40 con/bể 500 L (300 L nước). Thí nghiệm được thiết kế với hệ thống tuần hoàn gồm 36 bể (27 bể nuôi và 9 bể chứa), mỗi bể có thể tích 500 L. Mỗi nghiệm thức bao gồm 3 bể nuôi liên kết với 1 bể có chứa nước phèn và độ mặn phù hợp với từng nghiệm thức. Bể chứa được sử dụng nhằm dễ dàng điều chỉnh pH và độ mặn theo yêu cầu nhờ sự tuần hoàn nước giữa các bể. Độ mặn bể nuôi được nâng lên 1‰/lần (mỗi lần nâng cách nhau 8 giờ) cho đến khi các nghiệm thức đạt độ mặn mong muốn.

Các nghiệm thức có độ mặn cao được thực hiện trước và đến các nghiệm thức có độ mặn thấp để tất cả các nghiệm thức đạt độ mặn mong muốn cùng một thời điểm. Sau đó, pH được giảm ở nghiệm thức pH 5,5 và 6,5, sử dụng nước phèn được chuẩn bị như mô tả ở trên, thêm từ từ vào bể thí nghiệm nhằm giảm 0,25 đơn vị pH mỗi 2 giờ. Nghiệm thức có pH thấp nhất (pH 5,5) được tiến hành trước, sau đó đến nghiệm thức 6,5 để các nghiệm thức đạt mức pH cùng thời điểm. Nghiệm thức pH 7,5 không bổ sung nước phèn, chỉ sử dụng nước máy pha với nước ót để đạt độ mặn mong muốn. Sau khi độ mặn và pH ở các bể đạt mức pH thí nghiệm thì bắt đầu tính thời gian thí nghiệm. Thời gian thí nghiệm là 60 ngày.

Thí nghiệm được sục khí liên tục. Cá được cho ăn 2 lần/ngày lúc 8h, 16h và cho ăn theo nhu cầu của cá. Thức ăn được cân trước khi cho cá ăn. Sau khi cho cá ăn 30 phút tiến hành thu thức ăn thừa, sấy khô đến khối lượng không đổi và quy theo ẩm độ của thức ăn ban đầu để tính lượng thức ăn cá sử dụng nhằm xác định tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR). Số lượng và khối lượng cá chết được ghi nhận hàng ngày để tính tỷ lệ sống và FCR. Nước được thay 2 lần/tuần bằng cách xi phông cặn ở đáy bể, mỗi lần thay 30% lượng nước và thay nước mới có mức pH và độ mặn phù hợp với từng nghiệm thức.

Kết quả

Sau 60 ngày nuôi, qua các phương pháp thu mẫu, tính toán chỉ tiêu tăng trưởng, phân tích enzyme tiêu hóa, xử lý số liệu, nhóm tác giả kết luận:

Nước phèn và độ mặn có ảnh hưởng đến cá ở các mức độ khác nhau. Môi trường pH 5,5 và độ mặn 6 và 9‰ làm giảm tăng trưởng, tăng FCR ở cá. Cá ở nhóm pH 6,5 và nhóm độ mặn 3‰ có khối lượng, chiều dài, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG) và tốc độ tăng trường tương đối (SGR) cao nhất và FCR thấp nhất (p < 0,05). Tỷ lệ sống của cá chỉ bị ảnh hưởng ở nghiệm thức pH 5,5 – 6‰ và pH 5,5 – 9‰. Hoạt tính enzyme tiêu hóa trypsin tăng ở pH 7,5 – 3‰ và chymotrypsin giảm ở pH 5,5 kết hợp độ mặn 6 và 9‰, hoạt tính amylase tăng ở độ mặn 6 và 9‰. Từ đó cho thấy cá tra có khả năng tăng trưởng tốt trong môi trường nhiễm phèn pH 6,5 và nhiễm mặn nhẹ 3‰.

Lê Loan

Nguồn: Theo thuysanvietnam.com.vn
Kính thưa quý độc giả, Thủy Sản 247 hiện đang là đối tác truyền thông uy tín của nhiều đơn vị báo chí, truyền thông, triển lãm, hội chợ chuyên ngành thủy sản trên toàn cầu. Với sứ mệnh kết nối truyền thông thủy sản, chúng tôi sẽ nỗ lực mang đến quý độc giả những thông tin hữu ích, kịp thời và uy tín. Để người nuôi tôm, cá và doanh nghiệp thuận tiện cho việc phát triển nuôi trồng và kinh doanh. Quý bạn đọc có thể tham khảo hệ sinh thái Thủy Sản 247 bằng cách bấm vào đây để biết thêm chi tiết.
BQT Thủy Sản 247 Group.
Vui lòng ghi rõ nguồn thuysan247.com khi sao chép bài viết này.
Liên hệ cung cấp thông tin và gửi tin bài cộng tác về email [email protected].
Nhấn nút "quan tâm" nếu bạn muốn nhận thông tin cập nhật từ chúng tôi trên Zalo.

Bình luận bài viết